Cư Trần Lạc Đạo hảy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối Cảnh Vô Tâm chớ hỏi thiền.”
“Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
❤️Sự có mặt của “ta” trên cõi đời này, nếu không với cái nhìn bi quan bình thường, thì đó là một sự mầu nhiệm, ta có mặt trong cuộc đời này như là một chúng sanh nhỏ xíu “được” tham dự với vai trò múa rối trong một màn khiêu vũ vĩ đại của vũ trụ (cosmic dance). Đồ nghề diễn xuất mà ta mang theo vào đời không phải chỉ có hình hài thể chất con người trơ trụi chưa trang điểm này, mà “trong đó” còn “cài đặt” một “program” dài…thòng quá khứ, nó đã được thảo chương bởi chính ta, từ nhiều đời nhiều kiếp, program đó được gọi là Nghiệp. Nghiệp, vận hành dưới dạng năng lượng vô hình, nên gọi là nghiệp lực, tương tác với hoàn cảnh bên ngoài, tác động ý thức bên trong, ảnh hưởng hành động ứng xứ, để rồi tạo thành nghiệp mới hiện tại. Sự vận hành đó biến chuyển liên tục không ngừng, nhân thành quả và quả trở thành nhân, khắng khít với nhau trong điệu “tango” trên sàn nhảy của vũ trường có tên “Hồng Trần”! Ta sinh ra với dòng sinh mạng của một chúng sanh hữu tình, với hình hài thân thể như thế này mà không như thế khác; người này là cha mẹ, anh chị em ta, cùng sinh sống quay quần trên mảnh đất gọi là quê hương ta, dù nơi đó có xấu xa, nghèo nàn, điêu tàn chinh chiến, nó vẫn là quê hương ta… Điều này cho thấy, ngay lúc sinh ra là ta đã có một duyên hiện hành, một mệnh số mà ta phải chấp nhận vô điều kiện, để rồi từ đó, với kiến thức trần gian lượm lặt được trong quá trình “cư trần”, ta sinh tâm so sánh duyên phận mình với người khác, phàn nàn và mơ ước và để rồi gây ra đau khổ triền miên.
Điều kỳ diệu của cuộc đời là, dù căn bản là khổ, nhưng nó vẫn có đầy đủ muôn vàn vẻ đẹp, cái đẹp bàn bạc khắp nơi, ẩn tàng trong mọi hình tướng, ta chỉ cần mở mắt ra là thấy: trời xanh, mây trắng…
“mặt trái đất dù mang đầy cát bụi,
nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm.”
Do đó, ta biết được rằng, cuộc đời, bên cạnh những xấu xa tương tàn, còn có mặt của vô số điều cao quý.
❤️Thế nào là “lạc đạo”?
Lạc là “an vui” (well-being), an vui, nói chung, có nhiều nghĩa và “nồng độ” khác nhau, nó có tính đa dạng và tương đối—tùy đối tượng và chủ thể (người và cảnh)— “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” người buồn cảnh cũng buồn theo. Trạng thái an vui có thể được diễn đạt bởi nhiều từ ngữ khác nhau: dễ chịu, sung sướng, hạnh phúc, khoái lạc, “fẻ re” và cuối cùng là “đỉnh cao cực lạc”! Nhưng nói bao quát và chính xác hơn, thì là: tâm trạng của một người mà “thân không bệnh tật, tâm không phiền não” thì được cho là “an vui”. Lúc đó, nhu cầu vật lý và tâm lý bình thường (ngũ dục lạc=tiền tài, danh vọng, sắc dục, ăn uống, ngũ nghỉ) được tương đối thỏa mãn. Có thể nói đây là sự an vui bình thường, một trạng thái quân bình trên cán cân cảm thọ.
Làm thế nào để được lạc đạo ?
Tổ dạy đơn giản: chỉ cần biết sống tùy duyên thì được lạc đạo.
Tùy là tùy thuận, nương theo, ở ống thì dài, ở bầu thì tròn, như dòng sông uốn khúc lượn quanh theo địa hình khi gặp cản trở, tùy duyên (được định nghĩa theo thể phủ định): là sự ứng xử với hoàn cảnh bên ngoài và bên trong mà không tùy theo sở thích, không thuận theo tình cảm tham sân yêu ghét, mà là tùy thuận theo nguyên lý tự nhiên: “xuân đến bách hoa khai”, mùa thu hoa lá rụng…Vạn vật, các pháp nhờ tùy duyên mà mọi sự trôi chảy êm đềm, không gây xung đột, không gây khổ đau phiền não. Tùy duyên, không có ý nghĩa cuốn theo chiều gió: vui đâu mếch đó, không chạy theo hay “phang duyên” do duyên tác động mà sinh lòng thương yêu ghét muốn; tùy duyên cũng không “thụ động”: sống buông xuôi, thả trôi như lục bình lênh đênh sóng nước; cũng không phải “chủ động”: tìm cầu mong mỏi; cũng như tùy duyên sẽ không “mù mờ” nhân quả, mà là chìu thuận nhân quả, biết rõ nhân quả, nên cẩn trọng thân khẩu ý.
Tóm lại, người “tùy duyên” sống và hành xử có trí tuệ hướng dẫn, rõ ràng thường biết, ứng xử phù hợp lý đạo trong từng hoàn cảnh thuận hay nghịch: khi thuận duyên, thì dè dặt không sinh tâm ngạo mạn, mà còn có lòng biết ơn, muốn chia sẻ những phước báo mình có được với người khác; lúc gặp nghịch duyên thì sẽ không quá khổ đau, than thân trách phận, mà lại gia tâm học hỏi, coi nghịch cảnh như là một nấc thang thăng tiến. Ý niệm Tùy duyên cũng còn có hàm chứa yếu tố tích cực: cố ý “tạo duyên”, bằng cách tự mình tạo cho mình có cơ hội học hỏi, gần gũi thiện hữu; thường hay lui tới môi trường thuận lợi cho sự an bình và tiến bộ tâm linh; và cùng lúc đó người đó lại có ý “tránh duyên”: xa lánh người xấu và môi trường bất thuận lợi, tránh xa những ảnh hưởng không tốt.
“Duyên” vận hành trong lý nhân quả, là “chất” xúc tác giữa Nhân và Quả: tác động, hổ trợ, thu hút và thúc đẩy (push and pull) Nhân để hành động tạo ra Quả; là sợi dây ràng buột êm ái như tơ, bủa vây như màng nhện chờ ruồi sa chân và rắn chắn như dây thừng chờ tàu cặp bến! Sự vận hành Nhân-Duyên-Quả, mới trông như là quá đơn giản và dể hiểu, nhưng đi sâu thì phức tạp và vi tế, rất khó mà giải đoán cho thấu đáo, vì bản chất “tương tức”, “tương sinh”, “duyên khởi”: do cái này có mà cái kia có, do cái này không thì cái kia không; cái này sinh nên cái kia sinh, vì cái này diệt nên cái kia diệt. Duyên vận hành cũng rất đa dạng: nhân gặp duyên thì thành quả, và quả lại trở thành nhân để cho duyên khác tác động rồi tạo một quả khác, chu trình vận hành có tính “trùng trùng duyên khởi”, mạng nhện nhân-duyên- nghiệp-báo cứ thế mà ràng buột chúng sanh quay cuồng với nhau kéo dài vô tận, sinh rồi tử, tử rồi lại sinh, để rồi từ đó, con người cứ thế mà trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử.
Nhà có báu…
Quan niệm về bản thể vũ trụ của khoa học (nặng phần vật chất) cũng như giữa các tôn giáo lớn (nặng phần tâm linh) không có đồng quan điểm, hầu hết diễn giải thực tại rất khác nhau và đối nghịch: từ lý thuyết cực đoan về sự hình thành thực tại hiện hữu (kể cả vũ trụ và con người) được cấu tạo do các thành phần thuần vật chất mà bác bỏ yếu tố tâm thức (consciousness); các hoạt động tâm lý (mental, emotional) chỉ là những phản ứng sinh lý hóa học liên quan đến hệ thống thần kinh não bộ mà thôi; cho đến ngược lại, có những giáo phái nói về đấng Thượng Đế toàn năng, còn con người thì đầy tội lỗi cần phải cầu xin cứu rỗi… Chỉ duy có Phật giáo là đề cao Phật Tánh (tánh biết thường hằng) có sẵn trong mỗi con người (dù là Phật tử hay không, quan niệm này còn đi xa hơn: kể cả các chúng sanh hữu tình khác). Điều này rất quan trọng, vì nó thể hiện được tinh thần nhân bản, bình đẳng, trí tuệ và từ bi rộng lớn mà chư Phật và chư Bồ Tác đang thực hành và giáo hóa.
Ở đây, Tổ khẳng định lại điều đó, cho rằng “nhà có báu” và nhắn nhủ chúng ta hãy đem ra mà “xài”, mà dùng nó như phương tiện để “ngộ nhập”, để thăng tiến tâm linh, để trân quý và biết ơn. Lời nhắn nhủ này phảng phất câu chuyện “gã cùng tử” trong kinh Pháp Hoa, nhằm nhắn nhủ mọi người rằng mình có “hạt châu trong chéo áo” hãy “thôi làm thân cùng tử”, hãy “thôi tìm kiếm”, và “tự mình thắp đuốc mà đi”, vì đuốc đó có sẳn ở trong mỗi con người chúng ta. Đó là tinh thần “tự giác tự độ” của đạo Phật, quan niệm rằng an lạc hay đau khổ chỉ có do chính mình tạo nên chứ không thể tìm cầu nhờ vả bên ngoài mà được. Nhân quả nghiệp báo đều do mình gây nhân rồi gặt quả rất là công bình.
Con người tùy hoàn cảnh và mức độ nhận thức sâu nhạt mà “sanh tâm” khác nhau: một người sinh ra trong cảnh giàu sang quyền thế, ít có cơ hội tiếp xúc với cảnh nghèo nàn cùng khốn thì người đó khó sanh tâm thương người; một người quanh quẩn một chổ thì không thấy xa nhìn rộng, thường sanh tâm hạn hẹp; cũng như một người có nhiều kiến thức mà có thành kiến quá nặng, cũng khó mà có tâm thông cảm với người khác… Cảnh trần gian từ ngàn xưa vốn đã vương đầy cát bụi, cho đến ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đã khiến cho cát bụi đó càng ngày càng dầy đặc, ô nhiểm, phức tạp và càng “trần” và bụi hơn! kể cả mảnh vườn Phật Pháp càng mầu mở thì lại càng lắm sâu bọ… Do thế nên con người ngày nay, khi đối cảnh thì tâm sanh muôn vàn sai khác với người xưa, tâm ý tình cảm con người ngày nay trở nên vô cùng phức tạp và không ngừng biến động với tốc độ mà người xưa không thể tưởng tượng được, cho nên từ đó sự “đối cảnh” có nhiều áp lực thúc đẩy con người hành động, tạo nghiệp nặng nề hơn xưa rất nhiều. Những lý tưởng giác ngộ, giải thoát đã trở thành xa vời và không thực tế, vì nghĩ là sẽ không bao giờ thực hiện được trong cõi ta bà này, nên ngày nay, đa phần, người ta, trong các sinh hoạt tôn giáo, kể cả Phật Giáo, đều sanh tâm mong mỏi, mơ ước nguyện cầu một ban ơn hay phước báo nào đó để có thể “sanh về” một thế giới khác hơn, một nơi lý tưởng như là thiên đàng hay tịnh độ, nơi mà chính mình chỉ nghe nói và tưởng tượng thêm mà thôi.
Hình ảnh trong bài thơ “nhạn quá hàn đàm” và “phong lai sơ trúc” đã diễn đạt tài tình về điều này: Khi chim nhạn bay qua hồ lạnh hay khi gió lên trúc dậy, thì lúc đó, vì có hình chim in đáy nước, và có tiếng trúc xôn xao, nên có thể tạm gọi là “đối cảnh hữu tâm”, nhưng đến khi chim bay đi và gió ngưng thổi, thì bóng nhạn đáy nước không còn, và trúc bặt tiếng “than”, đó là lúc ta có thể cho là “đối cảnh vô tâm”. Đây là bài thơ tuyệt diệu hương Thiền. Hàn đàm lúc nào cũng có đó, gió khi nào cũng thấp thoáng đâu đây, nghĩa là tâm lúc nào cũng có, và khi hình bóng và âm thanh không còn, thì là “tâm không”. Tổ nói là nếu người nào sống được như thế thì là đối cảnh vô tâm và người đó khỏi cần học Thiền!
Chúng ta thử nghiệm xem nguyên nhân nào khiến chúng ta khó mà sống được như thế. Ta thấy có những trường hợp xảy ra khi đối cảnh như sau:
1. vô tâm: không thấy, không biết, vì khiếm tật; không để ý; đang lo nghĩ chuyện khác… nên vô tâm=không có tâm.
2. “hữu tâm”: có thấy biết, nhưng không rỏ, không chính xác, không thấy như nó là, vì bị ngăn che bởi “những cặp kiếng màu” (thành kiến; điều kiện, văn hóa, xã hội; tình cảm thương yêu ghét muốn…), vì bị ảnh hưởng nên nhận biết không trung thực (chim đáy nước không giống chim bay qua), nên cũng không thể cho là đối cảnh vô tâm.
3. “hữu tâm” và sự nhận biết có tuệ giác: thấy biết như thị: thấy thực tại như nó đang là, nhưng không có tác dụng phản ứng, như như bất động, như mặt hồ lặng yên, như gương soi chiếu.
Có một người nào đó, đang đi trên con đường mòn, thấy cành cây chắn ngang cản trở lối đi (đối cảnh), có ba cách “hữu tâm tác ý” khác nhau:
1. người đó tránh sang một bên mà đi qua như không có gì xảy ra (vô tâm=không có tâm=vô tác, vô thưởng vô phạt, vô tạo nghiệp…);
2. người đó nghĩ rằng (tâm sinh): mình nên dẹp cây này đi để có lối cho người khác (hữu tâm, hữu tác, hữu thiện nghiệp…);
3. người đó dẹp cây và đi luôn, không nghĩ ngợi, chỉ có hành động và có kết quả là để cho lối mòn trở lại như cũ, trả thực tại trở về trạng thái tự nhiên của nó (thuận pháp), hành động này được gọi là “vô vi, vô tác”, làm mà như là không làm.
Lão Tử có câu: “Vi vô vi nhi vô bất vi” (Không làm gì mà không gì là không làm)
Đi ăn nào….
😋😋😋
Thầy ơi quá sâu sắc thầy ạ
Kiếm đâu ra một người trẻ tuổi mà lại sâu sắc như thế????
Súc xắc e trai ui ❤️ trưởng thành k thể hình dung